Showing posts with label elite. Show all posts
Showing posts with label elite. Show all posts

Xiang Zhou and Yu Xie (2015) Intergenerational social mobility in China

In China as well as other post-socialist countries, the emergence of markets provided abundant opportunities for the old elites to convert their political power into physical capital, thus making socioeconomic status far more inheritable than before. Meanwhile, a more market-driven reward system spurred a sharp increase in income inequality, thereby equipping upper-class families with more resources and incentives to pass their economic advantages on to their offspring. The abolition of egalitarian educational policies, moreover, severely limited the channel of upward mobility for children of socioeconomically disadvantaged families. A combination of these processes may well explain the consolidation of status hierarchy and its influence on social fluidity.

Absolute rates of mobility, especially of upward mobility, have grown substantially from the cohort born in the 1950s to that born in the 1970s. This growth, however, has been entirely driven by the force of industrialization—that is, the placement of an increasingly larger share of children of farming origin into nonfarming occupations. When the farm sector is excluded, both the rise in upward mobility and the decline in class immobility disappear... Given that industrialization and rural-urban migration have sped up in China during the same period, this finding accords with our hypothesis that... the boundary between agriculture and other sectors tends to be more permeable in rapidly industrializing countries than in advanced industrial societies.

Xiang Zhou and Yu Xie (2015) Market Transition, Industrialization, andSocial Mobility Trends in Post-Revolution China

Ly H Chu (2014) Tóm tắt những hạn chế của các cách tiếp cận trong nghiên cứu chủ đề giai tầng ở Việt Nam

Các bàn luận về chủ đề giai tầng của các học giả trong nước (establishment) thường thống nhất với quan điểm của Nhà nước về giai tầng được ghi trong Hiến pháp. Trong các nghiên cứu của các học giả ngoài nước (independent/non-establishment), chủ đề chính được quan tâm là mối liên hệ của sự hình thành giai tầng (social class) và quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam. Cả hai cách tiếp cận đều có một số điểm hạn chế.

Trong nghiên cứu xã hội học trong nước, những đề tài về phân tầng, cấu trúc, tầng lớp xã hội không có nhiều nếu không muốn nói là hiếm hoi trong suốt những năm 1990 và 2000. Viện Xã hội học và Tạp chí Xã hội học ra đời năm 1983, nhưng theo quan sát của giáo sư Trịnh Duy Luân (2004) thì phải đến năm 1992 khái niệm phân tầng xã hội mới được sử dụng lần đầu tiên. Nghiên cứu của giáo sư Tương Lai năm 1993 dường như là nghiên cứu trong nước duy nhất mà tác giả đưa ra phân tích về bất bình đẳng thu nhập không với tư cách là một hệ quả không thể tránh khỏi và vô hại của kinh tế thị trường, mà là sự thách thức đối với nhà nước trong việc bảo đảm các mục tiêu công bằng xã hội. Ngoài nghiên cứu của giáo sư Tương Lai, nghiên cứu của tiến sỹ Đỗ Thiên Kính năm 2010 là nghiên cứu trong nước thứ hai về phân tầng xã hội sau Đổi mới. Nghiên cứu này có nhiều điểm giá trị, nhất là việc cho thấy rằng nghề nghiệp đã trở thành một chỉ báo xã hội học ý nghĩa cho nghiên cứu về các khác biệt xã hội. Tuy nhiên, nó có hai hạn chế lớn. Một là, tầng lớp xã hội mới chỉ được nhìn nhận như là một chỉ báo điều kiện sống chứ chưa được nhìn nhận như là một chỉ báo cơ hội sống. Nghiên cứu chỉ đưa ra những phân tích di động xã hội nội thế hệ (sự chuyển đổi nghề nghiệp của cá nhân trong vài năm) chứ không có những phân tích di động xã hội liên thế hệ (so sánh tương quan nghề nghiệp của cha mẹ và của con cái) cần thiết để phân tích bất bình đẳng về cơ hội sống. Hai là, người nghiên cứu đưa ra những lập luận thống nhất với quan điểm nhà nước về phân tầng xã hội hợp lý theo kiểu cấu trúc – chức năng (xem ngay dưới đây).

Vì sao vấn đề giai tầng không được quan tâm nghiên cứu ở trong nước? Tôi thử đề xuất ba vấn đề. Một là, có lẽ vì cứ nhắc đến giai cấp là người ta nghĩ ngay đến quan điểm Marxist về xung đột và đấu tranh giai cấp, về sự bóc lột của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị. Trên thực tế, Đảng đã dựa trên quan điểm này để tập hợp nông dân chống lại các 'giai cấp bóc lột' bao gồm 'địa chủ' trong cuộc cải cách ruộng đất năm 1956. Nhưng khi cuộc cải cách này kết thúc, thì từ đó đến nay, trong Hiến pháp, cấu trúc xã hội của Việt Nam luôn được coi là bao gồm hai giai cấp công nhân – nông dân cùng một tầng lớp trí thức liên minh với nhau, mà không tồn tại các giai cấp đối chọi với nhau. Như thế, nhắc đến bất bình đẳng giai cấp là gợi lại những sai lầm của cải cách ruộng đất, cũng như mâu thuẫn với quan điểm của Nhà nước được ghi trong Hiến pháp.

Hai là, nghiên cứu theo dòng Marxist ở các xã hội hậu xã hội chủ nghĩa, như của Djilas (1957), coi người trong Đảng như là tập hợp thành một giai cấp mới. Giai cấp được gọi là tư bản đỏ này nắm quyền lực chính trị đối với nguyên liệu sản xuất và không khác gì giai cấp tư sản ở các nước tư bản, đối chọi với toàn bộ những người dân thường bị bóc lột. Những bình luận của ông Nguyến Kiến Giang (1995) hay Hayton (2010) về quan chức cấp cao ở Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới thống nhất với quan điểm của Djilas (1957). Tất nhiên, cách tiếp cận về giai cấp như thế bị coi là sai trái và nguy hiểm với sự ổn định xã hội, nhất là khi, theo bình luận của Abuza (2001), Đảng coi quyền lực chính thống của mình đồng nghĩa với sự ổn định chính trị và xã hội của đất nước.

Ba là, một số học giả nước ngoài như Gainsborough (2002) hay Heberer (2003) đi theo hướng tiếp cận là gắn giai tầng với thái độ và hành động chính trị. Cụ thể, họ muốn tìm hiểu vai trò của các giai tầng xã hội trong việc thúc đẩy quá trình dân chủ hóa. Theo họ, nếu các giai tầng được hình thành thì sẽ đem lại những biến chuyển xã hội và theo đó là những biến chuyển về mặt chính trị. Cách tiếp cận này tất nhiên cũng không thể được chấp nhận ở trong nước.

Vậy thì các học giả trong nước bàn về chủ đề giai tầng như thế nào? Từ các bài bình luận, tổng hợp của các tác giả ở các viện, học viện nghiên cứu (ví dụ như Nguyen KM 2007; Nguyen TTu 2007; Ngo NT 2012; Nguyen Dta 2010), có thể thấy nổi bật lên hai lập luận thường được sử dụng để hợp lý hóa quan điểm của Nhà nước về phân tầng xã hội và các khác biệt xã hội. Lập luận thứ nhất là, các vị trí cao - thấp trong xã hội là kết quả khách quan của sự khác biệt giữa các thành viên trong xã hội về khả năng bẩm sinh, sự cố gắng, và những đóng góp của họ. Người giỏi hơn, có ích hơn thì được hưởng lợi nhiều hơn và ngược lại. Lập luận thứ hai là, mỗi giai cấp hay mỗi tầng lớp bao gồm những người làm đủ mọi ngành nghề và ở các vị trí khác nhau, có người giàu, người nghèo, vì thế tựu chung lại các giai tầng này ngang bằng với nhau và không đối chọi.  Ví dụ, theo Ngo NT (2012), giai cấp nông dân bao gồm cả các nông dân tỷ phú lẫn những người làm đồng thuê, hay theo Nguyen TT (2007), nhóm xã hội trung lưu thì là tập hợp của tất cả các thành phần ưu tú đến từ tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội.

Tuy lập luận mà các tác giả trong nước kể trên đưa ra ít được dựa trên cơ sở lý thuyết hay bằng cớ thực nghiệm, có thể thấy trong lập luận thứ nhất có dáng dấp của một số học thuyết như thuyết chức năng về phân tầng xã hội của Davis và Moore (1945), thuyết Darwin xã hội, thuyết giải thích di động xã hội dựa trên khác biệt về trí thông minh bẩm sinh (ví dụ như của Nettle 2003; Saunders 2012) hay thuyết cá nhân (Giddens 1991). Những thuyết này, vô tình hay hữu ý hợp lý hóa bất bình đẳng xã hội, hoặc là đã hoàn toàn lỗi thời, hoặc đã mất dần tầm ảnh hưởng trên thế giới (xem các bình luận của Collins 1971; Breen & Goldthorpe 2001; Savage & Egerton 1997; Sullivan et al. 2013; Nisbett et al. 2012; Savage 2000: 105). Lập luận thứ hai cũng hoàn toàn không có cơ sở khoa học. Không thể lấy định nghĩa về giai cấp nông dân - công nhân mà nhà nước sử dụng làm công cụ ý thức hệ - chính trị làm công cụ phân tích, bởi các nhóm được gọi là công nhân hay nông dân này chỉ có thể coi là các nhóm đồng nhất về mặt lịch sử - chính trị cho trường hợp cụ thể của Việt Nam, chứ không thể coi là các nhóm đồng nhất về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội theo các lý thuyết khoa học về phân tầng xã hội.

Mối quan tâm chủ yếu của các học giả ngoài nước là vai trò của các tầng lớp xã hội trong việc thúc đẩy những biến chuyển xã hội. Phân tích của các học giả như Gainsborough (2002) theo cách tiếp cận ý thức giai cấp – hành động chính trị có những đóng góp quan trọng vào hiểu biết về xã hội Việt Nam sau Đổi mới. Tuy nhiên, cách tiếp cận này còn tồn tại một số điểm hạn chế. Thứ nhất, cách tiếp cận này không khỏi bị chi phối bởi quan điểm chính trị của người nghiên cứu, đó là tin rằng, cải cách chính trị ở Việt Nam là tất yếu. Việc quá chú trọng đến một viễn cảnh về những biến chuyển xã hội theo một chiều hướng định sẵn có thể là trở ngại cho việc tìm hiểu sâu về sự tiếp nối và tái sản sinh xã hội, trong khi cần hiểu thấu đáo về xã hội hiện thời trước khi có thể bàn đến vấn đề thay đổi xã hội. Thứ hai, nếu cứ tiên quyết gắn vấn đề giai cấp – tầng lớp với vai trò chính trị của nó, thì nhiều khi lại có tình trạng vì không thấy hay không dự báo được vai trò chính trị của các giai cấp nên phủ nhận là có tồn tại giai cấp. Đây là một trong những cách lập luận thường được sử dụng nhằm phủ nhận ý nghĩa của nghiên cứu về giai tầng trong xã hội học trên thế giới (xem nhận định của Chauvel 2006). Thứ ba, có thể việc quá tập trung vào mặt chính trị khiến cho những cách tiếp cận không đưa chính trị vào trung tâm - những cách tiếp cận khác Marxist, chưa được đưa vào xem xét và ứng dụng trong nghiên cứu giai tầng. Trong khi đó, rất nhiều nghiên cứu trên thế giới sử dụng các cách tiếp cận khác Marxist, như các cách tiếp cận của Weber, Goldthorpe hay Bourdieu, chỉ ra rằng bất bình đẳng có thể được phân tích và giải thích một cách sâu sắc, mà không nhất thiết phải nhìn nó chỉ với quan điểm Marxist là những đối chọi và xung đột trong quan hệ giai cấp về mặt sở hữu tư liệu sản xuất.

Ly H Chu (2016) Social class influences on life chances in post-reform Vietnam

Jacqui Baker & Sarah Milne (2015) Southeast Asian dirty money states

Illicit revenues have not been part of the normative story of state formation. Rather, illegal practices and monies have been framed under the banner of “corruption:” an aberrant, irrelevant and dysfunctional side economy to official narratives of statehood. Yet, as the articles in this thematic issue show, to dismiss corruption and criminal activity as outside of the realms of state activity is to exclude an important dimension of state formation in contemporary Southeast Asia. The sums generated by these illicit economies are considerable, and parts of the state are heavily dependent upon them for everything from everyday state work, to the extension of sovereignty and the shoring up political stability. Little wonder then that these states exert enormous effort in the capture, control, and organization of dirty monies. The empirical evidence therefore challenges conventional narratives about how weak fiscal states are unable to build fiscal power, and instead suggests that Southeast Asian states often degrade their fiscal architecture in pursuit of illicit profits.

The relationship between illegal rentier economies and the state does not necessarily entail chaos or an absence of the rule of law. Rather, illegal economies are systematically established and protected by the state – as seen in the highly organized and visible deployment of the tools and devices of state territorialization. For example, state laws and institutions are used to demarcate areas for illegal logging; public infrastructure and equipment like roads and trucks are used for illicit timber extraction; and specialized drilling machines are deployed openly for the construction of underground mining tunnels that enable so-called informal mining. This level of capitalization and investment indicates how “illegality” can be systematized and normalized at a remarkable scale and how actors involved expect such practices to endure over time. 

Perhaps the most prominent example of this is in To’s article on Vietnam, where the state has recently re-zoned woodland around an upland village as “national forest.” This territorialization has not only changed the legal status of the land, extending state propriety over it, but has ushered in a host of government officials, law enforcers, and park rangers to “protect” the forest and uphold the logging ban. Residents who engage in traditional timber extraction are effectively criminalized and local law enforcers have the authority to confiscate village-logged timber or issue fines. However, the law is rarely enforced as stated on paper. Instead, the law is “taxed” through bribes extracted from villagers, who effectively conduct logging on behalf of local authorities. As timber is subsequently transported through government checkpoints, local middlemen known as lawmakers – who are themselves officials with familial ties to the government-run People’s Committee – skillfully maneuver the illicit timber through and over the formal law. The biggest rents from this illegal logging industry are not kept by the villagers who fell the timber, but are accumulated by state institutions and state officials. In this way, territorialization of upland Vietnam is central to the establishment of an illicit regime of extraction that finances and enriches the state.

Martin Gainsborough (2010) The Vietnamese state

To sum up, what we have, then, is a state which is little more than a disparate group of actors with a weak notion of 'the public good', using uncertainty, not impartial rules, as the basis of order. However, this is only part of the picture since the state also appears as greater than the sum of its parts - an institution which has 'self-preserving and self-aggrandizing impulses', to quote Benedict Anderson (1983), which takes people in and spits them out, and which re-creates itself in a way that cannot be reducible to the wit of any one individual. In Vietnam this comes across most clearly in terms of the way in which when this 'collectivity' of institutions and actors feel its core interests threatened, it is able to mobilize fairly robustly in order to clamp down on people or activities deemed to threaten the 'whole show'.

Martin Gainsborough (2010) Vietnam: Rethinking the state

Martin Gainsborough (2002) The 'new landlord class'

'[I]s it right to see Vietnam as a country devoid of a large landowning class? Despite continued formal restrictions on the maximum permitted landholdings in the countryside, the reform years have been accompanied by the growing incidence of landlessness with its obvious corollary, namely, the re-emergence of large landowners. There is also a confluence of interest between the government's state desire for foreign investment in agro-processing and the need for large landholdings. Foreign investment in agro-processing has been limited to date, but there is some evidence that foreign agro-processors have been able to secure large tracts of land when desired.

One might also argue that while the large landowners of the ancien regime have been toppled, in their place there has emerged a new landlord class, namely Communist Party cadres and government officials. After all, it is very often they, or their family members, who dominate the rural economy. If this analysis is correct, the prospects for a widening of the political space look less good.'

Martin Gainsborough (2002) Political change in Vietnam: In search of the middle-class challenge to the state Link

Thomas Heberer (2003) Who became entrepreneurs in the transition

'Former white-collar employees and managers of state or collective firms formed in our study [interviews carried out in 1996-1998 with 202 Vietnamese entrepreneurs throughout the country born 1940s - 1960s] the primary group of private entrepreneurs (managers 12.8%, white collar staffs 38.3%). This corresponds with a study carried out by the National Political Academy Ho Chi Minh (Central Party School) and the Friedrich Ebert Foundation (FES), according to which 42.7% of the entrepreneurs came from the state sector (civil servants, cadres). In 1991 a Swedish-Vietnamese study came to similar conclusions according to which the figure for former civil servants in the urban areas was 48% (in rural areas about 20%). This group of people not only possesses the best access to government resources and also to premises for production or raw materials, but also has good relationships with state or collective companies as well as to the authorities. With those advantages they have the right prerequisites to found their own firms, into which flow governmental resources as well as relationships with suppliers and customers from the former place of work. Moreover as a result of their earlier work they have at their disposal specific specialized knowledge.'

'At any rate 23.1% of the fathers of the entrepreneurs interviewed had earlier possessed their own company... [These] 'former capitalists'... emphasized that they had acquired through their earlier entrepreneurial activity knowledge and skills which had come of very good use in their renewed entrepreneurial activity. Furthermore a part of this group possessed sufficient capital which they had brought into secure keeping after the communist victory in 1975, and which could now be brought into use as starting capital. Capital and knowledge made possible the development of larger companies.'

Thomas Heberer (2003) Private Entrepreneurs in China and Vietnam: Social and Political Functioning of Strategic Groups Link

Tuong Lai (1993) Relation between political power and economic power

'Từ những khảo sát xã hội học ở một số mẫu đại diện của khu vực đô thị và nông thôn trên một số tỉnh, thành; chúng tôi đã ghi được những 'điểm trồi' về mặt kinh tế trên cái mặt bằng chung của sự phát triển. Những 'điểm trồi' ấy có thể là những nhà doanh nghiệp mới nổi lên ở đô thị, có thể là những 'nhóm vượt trội' ở nông thôn. Những 'điểm trồi', những 'nhóm vượt trội' này thông thường là những nhóm đã hội đủ hoặc tương đối đã ba yếu tố... Phân tích kỹ vào các chiều cạnh của những điểm trồi, những nhóm vượt trội này đã bước đầu có thể nhận xét rằng yếu tố quyền lực có vai trò rất lớn. Phần lớn những người nổi trội lên về kinh tế đều có mối liên hệ rất chặt với yếu tố quyền lực. Hoặc chính bản thân họ đang nắm giữ những vị trí quan trọng liên quan đến chức năng kinh tế của bộ máy quyền lực, hoặc con cháu họ hay những người có liên quan mật thiết đến họ. Vai trò của yếu tố trí tuệ chưa thật nổi trội, thông thường nó lẫn trong hai yếu tố sở hữu và quyền lực.'

Tương Lai (1993) Tính năng động xã hội, sự phân tầng xã hội trong sự nghiệp Đổi mới của nước ta những năm qua Link